Thiền đình và tăng huyết áp
Đỗ Quốc Hùng1
TÓM TẮT
Trong thời đại ngày nay, để tồn tại và phát triển trước
một
cuộc sống nhiều thách thức và một môi trường luôn thay đổi, con người phải đối mặt với nhiều áp lực tâm
lý. Chính những yếu tố gây Stress là nguyên nhân của nhiều bệnh tật.
Stress
có thể làm rối loạn tiêu hóa, tim mạch, rối
loạn
nội tiết, làm suy giảm khả năng miễn dịch khiến cơ thể dễ bị bệnh tật tấn công hoặc làm
trầm trọng thêm những chứng bệnh đang tiềm
tàng. Trong những trường hợp này, việc giải tỏa
Stress, điều hòa được cảm xúc phải là ưu tiên hàng đầu. Nói chung, thư giản hay căng thẳng, tập trung
tư tưởng vào một sự kiện này hay chuyển sang một sự kiện khác là khả năng tự nhiên ở mỗi người. Tuy nhiên, ở
một số trường hợp bệnh lý, khi hệ thần kinh đã quá tải, đã vượt quá giới hạn để tự hồi phục, tự điều chỉnh thì người bệnh cần một quá trình luyện
tập
hoặc điều trị. Trong
những trường hợp này, Thiền là một liệu pháp đối trị trực tiếp và hữu hiệu. Kết quả hành Thiền sẽ khác nhau do khả năng tập trung tư tưởng của mỗi người. Điều này tùy thuộc vào căn cơ và các điều kiện trợ duyên khác như chế độ ăn uống, sinh hoạt, giao tiếp… Thiền được xem là một liệu pháp bổ
sung được dùng song hành với các biện pháp chữa bệnh chính thống khác. Do đó
việc
gia giảm hoặc thay thế các loại thuốc trong việc điều trị phối hợp với Thiền cần theo sự chỉ
dẫn của bác sĩ điều trị.
1. ĐẶT VẤN
ĐỀ
Như chúng ta đều biết Stress (căng
thảng xúc cảm) là một yếu tố nguy cơ bệnh tim
mạch
nói chung và bệnh tăng huyết áp nói riêng. Trong cuộc sống hiện tại không thể loại
bỏ được nó mà chỉ có thể sống thích nghi và hạn chế tác dụng có hại của nó gây ra. Có nhiều cách làm giảm stress có hại trong đó thiền định là phương pháp cổ truyền đã được kiểm chứng rất sinh lý, rất đơn giản và rất hiệu quả. Chúng tôi nêu lại vấn
đề này cùng các đồng
nghiệp giúp cho những người
tăng huyết áp thêm biện pháp điều trị không dùng thuốc nhiều ích lợi lại không tốn tiền.
-
Những khái niệm về thiền và cách thiền
định:
Theo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thiền có thể đề cập đến; mọi loại Thiền đều có khả năng làm an diệu tâm, đem
lại cuộc sống hài hòa, giảm căng thẳng do cuộc sống sôi động hiện đại mang
lại. Tùy theo mục đích tông phái, trường phái mà có những loại thiền sau:
+ Thiền trong Phật giáo chia làm 2 loại là Thiền định và Thiền Tuệ. Thiền định là tập trung vào một đề mục thiền định (kasina) duy nhất để phát triển sức mạch của tâm
vắng lặng,
nhằm đạt được lực tập trung mạnh mẽ của tâm, thực hiện những khả năng siêu phàm hoặc
dùng hỗ trợ cho Thiền
Tuệ. Thiền Tuệ dùng để phát triển trí tuệ.
+ Thiền trong Ấn
Độ giáo: Gồm nhiều pháp môn của Yoga để rèn
luyện thân tâm.
+ Khí công: Dùng
để dưỡng sinh thân tâm.

1 Viện Tim mạch Việt Nam
Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất
nhiều. Nó bao gồm tất cả
phép tu như quán niệm hơi thở Nhập tức xuất tức niệm (zh. 入息出息念, pi. ānāpānasati),
Tứ niệm xứ (pi. satipa hāna)... với mục đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề- đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh
(Thiền
tông).
Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền
cũng không phải là những phương pháp đã nêu trên.
Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể miêu tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên
hệ với một tôn giáo nào cả - kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức vừa nói đã được các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên
thế
giới, mọi thời đại và văn hóa khác nhau trực nhận và miêu tả bằng nhiều cách. Đó là kinh nghiệm
giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa là thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh
tử. Vì vậy, tọa thiền không phải là một phương pháp đưa
con người đi từ vô minh đến
giác ngộ, mà là giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình
đang mỗi lúc hiện diện.
Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, thiền
định được xem như một kỹ thuật tập trung
cao cấp mà ở đó các học giả dùng để có sự tập trung và
thanh tĩnh, các Danh y cũng thực hành thiền định. Thiền định cũng được xem như để khai thông một số điểm tập trung năng lượng gọi là Luân
Xa theo Cảm xạ học, hay là để khai mở các huyệt đạo và hình thành dòng đại chu thiên
nối các kinh mạch. Thiền định cũng được thực hành nhằm tăng khả năng nhẫn nại, và sự tập trung, định lực.
Nguồn gốc của Thiền: Từ Thiền của Việt Nam hay Zen của Nhật Bản đều được phiên âm từ "Ch’an" của Trung hoa. Những chữ này đều xuất phát từ chữ Dhyna, có nguồn gốc
ở bộ
kinh Áo Nghĩa Thư (Upanishad). Đây là một bộ kinh thuộc triết học Bà la môn đã có từ thời thượng cổ ở Ấn Độ. Theo tư tưởng Ấn Độ, phàm muốn
hiểu được chân tướng của một sự vật ta phải hòa
mình làm một với sự vật đó. Thiền là quá trình tập trung tư tưởng, lặng lẽ suy tư, không để ngoại
cảnh chi phối, là quá trình đồng nhất hóa với sự vật để hiểu
được bản chất của nó. Thiền nguyên
là một hình thức tu trì của những tông phái triết học ở Ấn độ. Sau khi Phật giáo ra đời, khỏang
năm
520, Thiền được Bồ Đề Đạt Ma, một du tăng của Phật giáo truyền sang Trung hoa. Bồ Đề Đạt Ma nguyên
là một tu sĩ thuộc Bà la môn giáo. Từ đây Thiền
thuần lý và triết học của Ấn Độ đã được giáo
lý Phật giáo bổ sung và phát triển cả về
nội dung lý luận lẫn phuơng pháp thực
hành trong bối cảnh của truyền thống đạo học nguyên
thủy của Trung hoa. Sau đó khi du nhập vào Nhật Bản, Thiền lại được hòa trộn với tinh thần
lễ giáo và nghệ thuật của Nhật Bản. Như vậy Thiền
được phổ biến sau này ở các nước châu
Á đã hội tụ nhiều nét văn hóa đặc sắc của
phương Đông. Đến khỏang đầu thề kỷ thứ hai mươi, do công của một giáo sư người Nhật, ông D.T.
Suzuki, Thiền được giới thiệu sang
các nước Anh, Pháp, Đức… Vào giai đoạn này, sau những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, văn minh nhân loại đã tiến thêm nhiều bước mới. Đời sống vật chất không ngừng được nâng lên nhưng tâm hồn con người dường như lại thêm
lo âu, bất an hoặc
cô đơn, trống rỗng. Thiền đã có mặt kịp lúc để lấp
bớt khỏang trống này. Dưới cái nhìn duy
lý và thực tiễn của người phương Tây, Thiền đã nhanh chóng được tiếp nhận và quảng bá rộng rãi
như là một hình thức giáo dục đạo đức và tâm linh. Vượt qua khỏi ranh giới của
tôn giáo, sự hợp nhất giữa thân và tâm
của
Thiền giúp giải quyết những vấn đề do tâm
lý gây ra và là phương pháp chữa trị cho nhiều chứng bệnh của xã hội hiện đại để mang lại hạnh phúc và sức khỏe cho con người. Cũng ở thời gian này, Tổ chức Y tế
Thế giới đã
đánh giá lại ý nghĩa của từ sức khỏe
"Sức khỏe là sự thỏai mái hoàn toàn vể các mặt thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ
là tình trạng không bệnh
tật". Có lẽ vì những lý do này, khi chuyển ngữ sang phương Tây, người ta đã dùng từ "Meditation" để dịch
từ Zen. “Meditation” có cùng ngữ căn “Mederi" với từ "Medicine" với hàm ý là một phương pháp chữa bệnh.
Ông Herbert
Benson, giáo sư đại học Harvard, người sáng lập Viện Y học Tâm thể ở Boston
(Mind-Body Medical Institute) cho biết "từ 60% đến 80% số lượng bệnh nhân đến khám ở các phòng mạch đều có liên quan đến Stress. Các ca bệnh này đáp ứng rất kém đối với thuốc và
phẫu thuật nhưng lại rất tốt đối với các liệu pháp tiếp cận tâm thể". Ông cho rằng các liệu pháp
thư giãn và Thiền làm giảm
sự căng cơ, giúp giải tỏa những tình trạng lo âu, sợ hãi, bất an, dễ bị kích thích và đặc biệt
là làm giảm hoạt hóa các nội tiết tố
Stress.
Hiện nay có một phương
pháp Thiền đã được chính thức
đưa vào giảng dạy và thực hành
lâm sàng tại nhiều
trường đại học Y ở phương Tây, kể cả một số trường đại học lớn ở Mỹ như Umass, Standford, Duke, Virginia, San Francisco... Đó là MBSR. MBSR là những chữ viết tắt
của thuật ngữ "Mindfulness Based Stress Reduction", tạm dịch là "giảm Stress dựa trên sự tỉnh giác". MBSR được xem là một
liệu pháp bổ sung giúp điều chỉnh tinh thần, cảm xúc và cải thiện sức khỏe. Đây là một kỷ
thuật Thiền định nhằm phát triển chánh niệm, tức khả năng nhận biết điều gì đang xảy ra nơi thân hoặc tâm, qua đó có thể làm chủ được bản thân và điều hòa cảm xúc.
MBSR đã được giáo sư Jon Kabat - Zinn khởi xướng đưa vào thực hành lâm sàng từ đầu
những năm 1970. Hiện nay Trung tâm Y học và Giáo dục Tỉnh giác CFM (the Center For
Mindfulness in
Medicine, Healh Care and
Society) thuộc trường Đại học Y Massachusettes (UMASS), được xem là cơ sở y tế lớn nhất và lâu đời nhất ở Mỹ trong lĩnh vực quảng bá, giáo dục
và điều trị bằng MBSR. Một
liệu trình MBSR tiêu chuẩn kéo dài 8 tuần lễ. Chương trình
gồm
hai phần. Phần huấn luyện tại lớp mỗi tuần một lần, mỗi lần một buổi từ 2 giờ đến 2 giờ rưỡi. Riêng lần cuối cùng thường được tổ chức vào cuối tuần và kéo dài khỏang 7 hoặc 8 giờ. Phần tự thực
hành tại nhà khỏang 1 giờ mỗi ngày. Cho
đến nay, hàng chục
ngàn người đã được hưởng
lợi
từ chương
trình huấn luyện và điều
trị này.
Kết quả cho thấy
MBSR giúp
điều trị
những bệnh về tim mạch, các chứng đau nhức mãn tính, rối loạn chức năng, dạ
dày, ruột, chứng đau nữa đầu, cao
huyết áp, mất ngủ,
âu lo, hỏang
loạn… Hiện nay,
trên thế giới đã có
hơn
200 bệnh
viện
hoặc cơ sở y tế có thực hành điều trị bằng MBSR.
Thiền là một truyền thống văn hóa
đặc sắc của phương Đông. Do đó liệu pháp Thiền cũng phản ảnh đầy đủ tính chất "chỉnh thể"
và "Trời người hợp nhất" của nền y học cổ truyền. Chỉnh thể hay nhất thể (holistic) là quan điểm xem con người là một tổng thể hợp nhất. Mỗi triệu
chứng, mỗi bộ phận đều phải được xem
xét và điều chỉnh trong mối tương quan chung nhằm mang lại sự cân bằng và hài hòa cho cả tổng
thể. Chẳng hạn, ở một bệnh nhân loét dạ dày, liệu
pháp chỉnh thể sẽ lưu ý giải quyết tình trạng thấp nhiệt ở dạ dày hoặc căng thẳng tâm lý trong
sinh hoạt để cải thiện khí hóa ở Tỳ vị hơn
là
cố tìm một loại kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn gây loét.
Ở những chứng viêm mũi mãn tính, Đông y cho rằng do Âm
hư gây ra Hỏa vượng. Do đó
cách chữa phải đặt nặng việc bổ thận
để nạp khí, bổ Âm phải tàng Dương, hơn là chỉ dùng những chất hàn lạnh để trừ hư Hỏa. Dù hư Hỏa có tạm được khống chế nhưng nếu làm trầm trọng thêm sự mất quân bình Âm Dương hoặc suy sụp thêm sức đề kháng thì bệnh không thể dứt được… Nói chung, theo quan điểm này thì sự nâng cao chính khí và sự
hài hòa bên trong mới chính là
nguồn gốc của sức khỏe.
Chừng nào mà sự hài hòa còn chưa
đạt được hoặc sức miễn dịch chưa được
cải thiện thì sự cứu chữa chỉ là cục bộ hoặc tạm thời và sự biến mất của một triệu chứng sẽ
có thể gây ra một triệu chứng khác ở một tổ
chức khác. Do đó, với ý nghĩa hòa hợp
hay hợp nhất giữa các tổ chức trong cơ thể, hợp nhất giữa thân và tâm và cuối cùng là giữa con người và vũ trụ, Thiền là đỉnh cao của liệu pháp chỉnh thể và cũng là chỗ
gặp nhau giữa y học và các nền học
thuật khác của phương Đông. Giống như những nhà khí công, những người hành trì Thiền
lâu năm có định lực cao, trình độ khí hóa được nâng lên, có thể dùng năng lực Thiền để hóa giải bệnh
tật hoặc chữa bệnh cho người khác. Về mặt thần kinh, thông qua quá trình thư giản và nội quán,
Thiền duy trì trạng thái yên tĩnh
của đại não, có thể điều hòa thần kinh giao cảm, phục hồi tính
tự điều chỉnh và tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương. Đây cũng là một cơ chế
mang
tính chỉnh thể vì sự
hài hòa và hoàn thiện của hệ thần kinh sẽ tác động
trở lại để điều hòa hoạt động nội tiết, nội tạng, tái lập tình trạng khí hóa bình thường
để phục hồi sức khỏe. Cũng
vì lý do này, những liệu pháp thư giãn và Thiền không chỉ có hiệu quả trên những bệnh tâm
thể mà
còn thông qua việc nâng cao sức miễn dịch và cải thiện lưu thông khí huyết để phục hồi dần những cơ quan đã bị tổn thương.
Nói chung trong quá trình hành Thiền, "thần tĩnh tức âm sinh", tâm không duyên ra ngoài sẽ giữ
được khí, ngưng thần định ý tại Đan
điền
sẽ gia tăng chân khí. Do đó
công năng dưỡng âm tồn thần
và nâng cao chính khí của tọa Thiền
hoàn toàn phù hợp với tinh thần
"nhiếp sinh" của Nội kinh, có thể chữa được bệnh, tăng cường sức khỏe, kéo dài tuổi thọ và giúp gia tăng sự thích nghi của cơ thể đối với những
điều kiện thay đổi của môi trường sống.
Liệu pháp Thiền và những suy nghĩ tích cực: Khi xem
một
vở kịch tốt hoặc một phim hay, trong
những lúc cao trào, ta thường
bị thu hút vào vở diễn hoặc vai diễn. Thương cảm, rơi lệ
hoặc bức xúc, tức giận… Trong những phút giây đó, không chỉ người diễn viên mà
cả người xem đều đã như hóa thân thành một người khác chứ không
còn là người diễn viên hoặc bản thân chúng ta của những lúc bình thường.
Những truyền thống tư
tưởng phương Đông đều quan niệm thân và tâm là một thể thống nhất. Suy nghĩ và cảm xúc luôn tác động đến phần thể xác. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn cả
nhận thức và từ nhận thức sẽ dẫn đến hành động. Chính những cảm xúc và nhận thức lâu ngày đã hình thành nên tập tính và tình trạng sức khỏe ở mỗi người. Do đó có thể
nói mỗi người chính là những điều mà người đó suy nghĩ. Mỗi người trong chúng ta vì những lý do khác nhau đã vô tình bị tập nhiễm
một
số hành vi mà chúng
ta không muốn nhưng đã không thể cưỡng lại được. Kỹ thuật tự ám thị (auto-suggestion) thông qua thiền định
có thể giúp cải thiện tình trạng này.
I.P. Paplov một nhà sinh lý học nổi tiếng của nước Nga đã chứng minh rằng mọi phản xạ
thần kinh dù cao hay thấp,
mọi
thói quen, quá trình rèn
luyện, học tập,
lao động
đều là những quá trình hình thành nên những phản xạ. Trong hành Thiền, việc hóa thân, việc đồng nhất hóa với một sự vật mới, một ý niệm mới hoặc một con người mới đã được tái hiện liên tục và nhiều lần trong một điều kiện tâm lý đặc biệt.
Điều
kiện tâm lý đặc biệt chính là tình trạng thư giãn hoặc nhập tĩnh khi mà não trở nên nhạy cảm
khác thường trong việc tiếp nhận và hoạt hóa những thông tin liên quan, đến những ý niệm hoặc hình ảnh được gợi ra. Nói cách khác, khi ở vào tình trạng thư
giãn ta có thể dùng lời nói hoặc những hình ảnh tưởng tượng thích hợp để cải thiện những tình trạng tâm lý hoặc vật lý của cơ thể, những
điều mà trong điều kiện bình thường ta không thể thực hiện được.
Hiệu
ứng này thường được vận dụng trong các phương pháp dưỡng sinh, khí công, thôi miên, tự ám thị và cả trong nhiều nghi thức tôn giáo. Ví dụ, bình thường ta không thể ra lệnh hoặc tự nhủ để nhịp tim chậm
lại
hoặc huyết áp giảm xuống. Tuy nhiên, trong điều kiện thư giãn hoặc lúc thiu thiu
ngủ nếu ta "thấy" hoặc "nghĩ" rằng tim đang đập chậm
lại hoặc huyết áp đang hạ xuống thì tần số tim sẽ giảm và huyết áp sẽ hạ. Hãy lưu ý từ "thấy" mà không phải là "nhìn". Từ "thấy"
hoặc "nghĩ" ở
đây hàm
nghĩa không có sự phân tích hoặc cố gắng về mặt ý thức. Đây là một nguyên tắc quan
trọng của Thiền cũng như của sự tự ám thị. Nguyên tắc này có thể được gọi một cách vắn tắt nhưng
khá chính xác là sự tập trung không căng thẳng. Tập trung vào một từ khóa, một câu ám
thị,
hoặc một cảnh vật… nhưng phải ở trong điều kiện tĩnh lặng và không căng thẳng. Chính sự
tĩnh lặng và không căng thẳng giúp duy trì tình trạng nhập tĩnh đồng thời nâng cao tính nhạy cảm trong
việc tiếp nhận và hình thành nên những cung phản xạ mới. Về mặt khoa học, nhập tĩnh ứng với tình trạng cơ bắp thư giãn hoàn toàn và sóng não hạ thấp từ nhịp Beta nhanh và không ổn
định xuống nhịp Alpha hoặc Theta chậm và ổn định hơn. Trong điều kiện này bất kỳ sự căng
thẳng nào kể cả sự căng thẳng của quá trình chú
ý (chẳng hạn phân tích, lý luận về vấn đề đang chú
ý) đều sẽ làm thay đổi sóng não và phá vỡ sự nhập tĩnh. Chính sự tự ám
thị trong điều kiện
thư giãn hoặc gần nhập tĩnh
giúp thúc đẩy nhanh quá trình hình thành nên những
cung phản xạ mới cho yêu cầu chữa bệnh hoặc cải thiện hành vi, nhân cách.
Ở nhiều bệnh nhân mắc những bệnh mãn tính đã trải qua điều trị lâu
dài, tính trầm trọng không phải ở chính căn bệnh mà ở tâm
lý chán nản, trầm uất. Tâm lý này phát xuất từ suy nghĩ mình là gánh nặng của gia đình hoặc do
thiếu niềm tin vào thầy, vào thuốc. Yêu cầu điều trị trong những trường hợp này là phải giải tỏa được trầm
uất và tăng cường niềm tin sẽ khỏi bệnh. Đó là lý do tại sao thiền
và những suy nghĩ tích cực lại hữu hiệu trong hầu hết những bệnh kinh niên. Với liệu pháp thiền, có thể nói người
bệnh chính là thầy thuốc và sức miễn dịch
được nâng lên chính là thuốc chữa bệnh.
- Thực hành Thiền định: Sau đây là một vài thí dụ về sự phối hợp giữa thư giãn và Thiền
và những suy nghĩ tích cực. Để đạt được mục đích thư giãn và bình an cho tâm trí, người tập có
thể
nghĩ đến những cảnh quang mà mình ưa thích hoặc đã từng trãi qua. Rừng thông bạt ngàn, gió thổi vi vu. Bãi cát trắng
xóa, sóng biển nhấp nhô. Cánh đồng
lúa rì rào, gió thổi mơn man. Cảnh núi non hùng vĩ, thác nước trắng
xóa… Nằm hoặc ngồi thỏai mái ở một nơi yên tĩnh, thóang mát. Mắt khép nhẹ. Hít thở
điều
hòa, thì thở ra chậm và dài hơn thì hít vào. Tập trung tư
tưởng nghĩ đến cảnh quang đã định. Hình dung rõ ràng quang cảnh như đang
hiện ra trước mắt mình. Lặng lẽ quan sát để từ từ tiến đến dung hợp giữa người
và cảnh, thấy mình hòa tan vào cảnh hoặc quên đi bản thân mình.
Để gia tăng nội khí hoặc
để điều trị các chứng hư Hỏa gây căng thẳng, nhức đầu, khó ngủ,
hồi hợp,… có thể tập trung vào bụng dưới. Ngồi bán già hoặc kiết già. Lưng thẳng. Eo hơi
thót lại. Cằm hơi thu vào. Đầu lưỡi chạm
nướu răng trên. Buông lỏng phần vai và hai tay. Mắt khép nhẹ.
Hít thở điều hòa. Tập trung tâm
ý quán tưởng khắp chung quanh mình đang có gió nhẹ thổi vào vùng bụng dưới.
Ông Emile Coue (1857 - 1926), một chuyên gia điều trị tâm lý người Pháp là người đã từng hướng dẫn và điều trị cho hàng chục ngàn bệnh nhân bằng phương pháp ám thị và tự ám
thị.
Đến với ông có thể là những người bị mất ngủ, hỏang loạn, nói lắp,
nghiện thuốc, béo phì,
động kinh, suyển và cả những bệnh nhân tim mạch, tiểu đường, u xơ, viêm khớp. Ông đã đề xuất một công thức ám thị đơn giản chung
cho nhiều trường hợp khác nhau, để điều chỉnh hành vi hoặc để thay đổi những điều kiện
tâm lý, vật lý cho việc cải tạo
sức khỏe. Nguyên văn
câu ám thị là "Tous les jours a tous points
de vue, je vais de mieux en mieux" đã được chuyển sang Anh
ngữ “Day by day, in every way, I am getting
better and better", tạm dịch "Mỗi ngày qua, tôi tốt đẹp hơn lên về mọi phương diện".
Ông khuyên người bệnh thực hành ám thị hai lần mỗi ngày. Mỗi
lần tự nhẩm
20 lần câu ám thị nêu trên. Cần làm một xâu chuỗi có 20 hạt để lần chuỗi tương ứng
với 20 lần nhẩm niệm. Việc lần chuỗi vừa bảo đảm đủ số cần niệm, vừa có tác dụng tạo
thêm phản xạ có điều kiện cho những lần sau. Thực hành lúc vừa thức dậy, sắp sửa xuống giường và liền trước khi nằm
xuống ngủ. Đây là những lúc mà chúng ta còn ngái ngủ hoặc buồn ngủ.
Do đó khi đã nhắm mắt và tập trung vào câu ám
thị thì tâm chỉ tồn tại có ý niệm đó, những tạp niệm
rất khó xen vào. Về mặt thần kinh, những thời điểm
này gần giống như lúc chúng ta
luyện tập thư giãn hoặc chuẩn bị nhập tĩnh
nên cũng là lúc tốt nhất để tiếp nhận những thông tin
tích cực cho việc tạo nên những cung phản xạ mới.
2. MỘT SỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ THIỀN LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP
Ở một đất nước nổi tiếng với sự phát triển Y tế và Công nghệ cao như
Mỹ cũng đã chú ý đến phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc cho người bị
bệnh tăng huyết áp, đó là châm
cứu, ấn huyệt và thiền định.
Một
nghiên cứu được công bố trên tạp chí American
Journal of Hypertension cho thấy thực
tế
Thiền có thể mang lại lợi ích tim mạch và sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu này, được thực hiện
tại
Đại học Mỹ ở Washington, theo dõi 298 học
viên, phân nửa số người thực hành thiền định trong 20 phút một lần hoặc hai lần mỗi ngày trong
vòng ba tháng;
một nửa trong số đó không thực hành thiền. Kết quả thu được: Nhóm thực hành thiền định có huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương và các yếu tố làm
tăng nguy cơ cao huyết áp như căng thẳng, lo lắng, đau khổ tâm lý giảm đáng kể. Ở nhóm này có HATT giảm trung
bình 8 mmHg và HATTR giảm 5 mmHg; đồng thời giảm đáng kể tỉ lệ xuất hiện những cơn tăng HA kịch phát. Ở nhóm không thực hành thiền
thì hầu như các chỉ số
trong nghiên cứu tăng lên. Kết quả
là đặc biệt có ý nghĩa tham khảo cho
việc điều trị rối loạn tâm
thần và trầm cảm hiện
đang xuất hiện nhiều ở lứa tuổi.
Trong một nghiên
cứu công bố trên Tạp chí American Journal
of Cardiology, hơn 200
người đàn ông và phụ nữ bắt đầu thiền định để điều trị tăng huyết áp. Kết quả cho
thấy, sau 3 tháng thực hành Thiền
mỗi
ngày 30 - 40 phút, HATT giảm 8,4mmHg,
HATTR giảm 5,1mmHg, Sau 6 tháng, HATT giảm 13,4mmHg, HATTR giảm 8,5mmHg.
3. KẾT LUẬN
Thiền là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả nhất và an toàn cho căng thẳng,
nó cũng có hiệu quả xử lý các khác biệt nguyên nhân tăng huyết áp: Nghiện hút thuốc lá, mức độ tiêu thụ rượu cao, lối sống tĩnh tại và sự lựa chọn dinh dưỡng không hợp lý và sự mất cân bằng
nội tiết tố trong
cơ thể. Ông Richard
Davidson nhà khoa học thần kinh học và thiền
định tại Đại học Wisconsin-Madison cũng khuyến cáo rằng: Hiện có nhiều phong cách thiền định khác nhau, và không phải một kỹ thuật thiền đều
phù hợp với tất cả người tăng huyết áp. Do đó, người tăng huyết áp nên lựa chọn một kỹ thuật thiền phù hợp với tính chịu đựng và tăng khả năng tập
trung của mình. Tốt nhất là trải nghiệm và chọn cho mình một phong cách thiền thỏai mái và
hiệu
quả. Và để Thiền quản lý huyết áp, quản lý để thay đổi chức năng và cấu trúc bộ não thì cần
20 - 40 phút thiền cho mỗi ngày. Quan trọng hơn nữa là thiền khôi phục lại cân bằng trong cơ thể, bao gồm cả cân bằng các hormon nội tiết cũng như giúp con người ý thức hơn về việc loại
bỏ lối sống, thói quen rượu
chè, thuốc lá và tránh sử dụng các loại thức ăn làm tăng huyết áp.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Krapp, Kristine
M.; Jacqueline L. Longe (2001). The Gale Encyclopedia of Alternative
Medicine: Volume 3. Gale Group. ISBN 0787650021.
2. Yang, Jwing-Ming
(1987).
Chi
Kung:
Health
&
martial
arts. Yang's
Martial Arts
Association. ISBN 0940871009.
3. Holland, Alex (2000). Voices
of Qi: An Introductory Guide to Traditional Chinese
Medicine. North Atlantic Books.
ISBN 1556433263.
4. Yang,
Jwing-Ming
(1998).
Qigong
for
health
and
martial
arts:
Exercises
and
meditation. YMAA Publication Center. ISBN 1886969574.
5. Xu, Xiangcai
(2000).
Qigong
for
Treating
Common
Ailments.
YMAA
Publication
Center. ISBN 978-1-886969-70-4.
6. Eulogio R Galvez,
MD
(2008).
Self-Healing
Medical
Chi Kung Meditation: For
Combatting Cancer and All Illnesses. Wheatmark. ISBN 1-60494-135-9.
7. Hoàng
Thị Ái Khuê – Tác dụng của Thiền để giảm huyết áp và bảo vệ trái tim của bạn
=Trung tâm Yoga Ban Mai.
No comments:
Post a Comment