LIÊN
QUAN VỀ BỆNH LÝ TAI - MŨI - HỌNG VỚI CÁC CHUYÊN KHOA
PGS. Dinh - HVQY
Tai, mũi, xoang, họng,
thanh quản là những hốc tự nhiên ở sâu và kín trong cơ thể, đảm bảo những giác
quan tinh tế như: nghe, thăng bằng, phát âm, đặc biệt là chức năng thở. Bởi vậy
mà khi các giác quan này bị bệnh nó có ảnh hưởng không nhỏ tới các cơ quan, bộ
phận trong toàn bộ cơ thể. Đó là một mối liên quan mật thiết bổ xung và hỗ trợ
cho nhau. Về phương diện chức năng có nhiều người bị nghễnh ngãng hay bị điếc
trong cộng đồng, ở trường học trong 6 em có 1 em bị nghe kém. Ở các kỳ tuyển
quân cứ 100 người có 1 người bị loại vì điếc và hàng ngàn, hàng vạn người bị
xếp vào công tác phụ.
Ngày nay cùng với sự
phát triển cao về đời sống, con người ngày càng chú trọng tới chất lượng cuộc
sống, điều này cũng giải thích vì sao số bệnh nhân đến khám tai, mũi, họng ngày
càng đông, theo thống kê điều tra ARI cứ
2 cháu nhỏ thì có một cháu bị bệnh tai, mũi, họng. Chứng chóng mặt, mất thăng
bằng gắn liền với tổn thương của tai trong, trước một trường hợp chóng mặt,
thầy thuốc phải nghĩ tới tai trước khi nghĩ đến bệnh gan, dạ dày hay u não.
Về phương diện đời sống,
người ta có thể chết về bệnh tai cũng như chết về bệnh tim mạch, bệnh phổi, ví
dụ trong viêm tai có biến chứng não. Đặc biệt trong các bệnh ung thư. Ung thư
vòm họng chiếm tỷ lệ hàng đầu trong ung thư đầu mặt cổ, bệnh có thể điều trị
khỏi nếu được phát hiện sớm. Một bệnh nhân khàn tiếng kéo dài cần được khám tai
mũi họng vì có thể là triệu chứng khởi đầu của bệnh ung thư thanh quản, nếu
phát hiện sớm có thể điều trị khỏi bệnh. Có nhiều bệnh về Tai Mũi Họng nhưng
lại có triệu chứng mượn của các chuyên khoa khác ví dụ như: bệnh nhân bị mờ mắt
do viêm thần kinh thị giác hậu nhãn cầu sẽ đến
khám mắt sau khi định bệnh mới biết là viêm xoang sau. Bệnh nhân bị đau
đầu, mất ngủ suy nhược cơ thể đi khám thần kinh, định bệnh do nguyên nhân viêm
xoang v.v...
Vì vậy thầy thuốc đa
khoa cần có kiến thức cơ bản về bệnh tai mũi họng cũng như thầy thuốc Tai - Mũi
- Họng cần hiểu biết mối liên quan chặt chẽ nàyđể có thể chẩn đoán và điều trị
bệnh nhân được nhanh chóng và chính xác.
I. Quan
hệ với nội khoa.
1.1. Nội
tiêu hoá.
Khi
bệnh nhân bị viêm mũi họng, các chất xuất tiết như: đờm, dãi, nước mũi vv...là
những chất nhiễm khuẩn khi nuốt vào sẽ gây rối loạn tiêu hoá. Hơn nữa hệ tiêu
hoá có hệ thống hạch lympho ở ruột có cấu tạo giống như ở họng vì vậy mỗi khi
họng bị viêm thì các hạch lympho ở ruột cũng bị theo gây nên tăng nhu động
ruột.
Viêm tai giữa ở trẻ em
có rối loạn tiêu hoá tới 70% do phản xạ
thần kinh tai - ruột (phản xạ Rey).
Nôn ra máu do vỡ tĩnh
mạch bị giãn ở 1/3 dưới của thực quản (trong hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch
cửa).
Hội chứng trào ngược thực quản, trào
dịch dạ dày vào thanh, khí phế quản gây ra viêm đường hô hấp vì dịch dạ dày có
nồng độ PH thấp.
1.2. Nội
tim, thận, khớp.
Khi viêm nhiễm như
viêm amiđan mạn tính, bản thân amiđan trở thành một lò viêm tiềm tàng
(focalinfection), bệnh sẽ thường xuyên tái phát khi gặp điều kiện thuận lợi
thông qua cơ chế tự miễn dịch sẽ gây ra các bệnh như viêm cầu thận, viêm khớp
và các bệnh về tim. Giải quyết được các lò viêm như cắt bỏ amiđan sẽ góp phần
điều trị các bệnh trên.
1.3.
Thần kinh.
Các bệnh viêm xoang,
viêm tai thường bị đau đầu thậm chí gây suy nhược thần kinh. Đặc biệt trong ung
thư vòm triệu chứng đau đầu chiếm tới 68 - 72% các trường hợp. Ung thư giai
đoạn muộn bệnh nhân thường xuyên bị liệt các dây thần kinh sọ não.
1.4.
Nội huyết học.
Bệnh nhân giai đoạn cuối trong
các bệnh về máu thường bị viêm loét họng dữ dội chảy máu lớn phải xử trí cầm
máu. Bệnh nhân trong phẫu thuật tai mũi họng thường phải kiểm tra kỹ hệ thống
đông máu tuy nhiên đôi khi thông qua cơ chế dị ứng miễn dịch xuất hiện chứng
đông máu rải rác ở vi mạch gây chảy máu ồ ạt phải xử trí nội khoa mới được.
1.5.
Nhi khoa.
Tai, mũi, họng gắn bó chặt chẽ với
khoa nhi là do hầu hết các bệnh lý khoa nhi đều liên quan chặt chẽ với Tai Mũi
Họng, ví dụ: do các cháu nhỏ, đặc biệt sơ sinh không biết khạc đờm, xì mũi mỗi khi các cháu bị viêm mũi họng, viêm V.A
và amiđan dễ gây ra viêm đường hô hấp (tỷ lệ viêm khá cao 50% trong các cháu
đều mắc bệnh tai mũi họng). Do đặc điểm cấu tạo vòi Eustachi của trẻ em luôn
luôn mở nên dễ bị viêm tai giữa khi các cháu bị viêm mũi họng.
Điếc
sẽ gây thiểu năng trí tuệ, và thường dẫn tới em bé bị câm do không nghe được.
1.6.
Truyền nhiễm.
Hầu
hết các bệnh truyền nhiễm như sởi, ho gà, cúm v.v... đều có biểu hiện đầu tiên
ở các cơ quan tai mũi họng. Bệnh bạch hầu thường khởi phát bằng bạch hầu ở
họng. Chảy mũi là triệu chứng thường gặp trong các bệnh bạch hầu, sốt rét...
1.7.
Nội hồi sức cấp cứu.
Khi tình trạng khẩn cấp bị di vật
đường ăn, đường thở thì Bác sỹ Tai Mũi Họng cùng các Bác sỹ hồi sức cấp cứu cho
bệnh nhân. Suy hô hấp nặng, hôn mê
phải mở khí quản để làm hô hấp hỗ trợ và hút đờm dãi...
1.8.
Da liễu.
Dị ứng da như bệnh tổ đỉa, eczema có
liên quan với dị ứng niêm mạc đường hô hấp. Các bệnh như giang mai, lậu, hủi,
AIDS đều có biểu hiện ở tai mũi họng như: gôm giang mai, các vết loét v.v...
1.9.
Tâm thần.
-
Bệnh
nhân bị rối loạn thần kinh chức năng.
-
Bệnh
nhân bị rối loạn cảm giác: loạn cảm họng...
-
Bệnh
nhân bị ảo thính ...
1.10.
Khoa lao và bệnh phổi.
Tai Mũi Họng là cửa ngõ của đường hô hấp, là đường hô hấp trên do đó có mối
quan hệ bệnh lý khá chặt chẽ. Lao thanh quản thường là thứ phát sau lao phổi.
Dị ứng đường hô hấp...
II.
Quan hệ với chuyên khoa răng hàm mặt.
Răng
Hàm Mặt là một khoa cận kề với Tai Mũi Họng và các bệnh lý có liên quan chặt
chẽ như: trong xử trí đa chấn thương, trong phẫu thuật thẩm mỹ...Trong bệnh lý
ung thư đầu mặt cổ, trẻ em có dị dạng bẩm sinh. Viêm xoang hàm do răng (răng
sâu, răng mọc lạc chỗ).
Viêm khớp thái dương hàm gây ra nhức
đầu, ù tai.
III.
Quan hệ với chuyên khoa mắt.
Bệnh lý của khoa mắt liên quan
chặt chẽ với khoa Tai Mũi Họng đặc biệt trong viêm xoang sau gây viêm thần kinh
thị giác hậu nhãn cầu. Nếu điều trị xoang phục hồi thì thị lực cũng phục hồi. U
nhầy xoang trán: u to dần đẩy lồi nhãn cầu. Viêm xoang sàng có thể xuất ngoại ở
góc trong trên của mắt dễ nhầm với viêm túi lệ.
IV.
Quan hệ với chuyên khoa thần kinh sọ não.
-
Các
khối u tai trong (u dây thần kinh số VIII), u xoang bướm...
-
Trong
chấn thương vỡ nền sọ :
Vỡ nền sọ trước: chảy máu mũi dữ dội.
Vỡ nền sọ giữa: chảy máu tai, liệt
mặt, điếc.
V.
Quan hệ với chuyên khoa sản.
Trẻ sơ sinh có những dị dạng trong tai
mũi họng ảnh hưởng tới hô hấp và tiêu hoá như: hở hàm ếch, dò thực quản-khí
quản, hội chứng trào ngược thực quản...
VI.
Quan hệ với chuyên khoa y học lao động.
Khoa học ngày càng phát triển
cùng với tiến độ của khoa học có nhiều bệnh nghề nghiệp xuất hiện như:
-
Tiếng
ồn trong công nghiệp và trong quốc phòng gây điếc, trong không quân, hải quân:
cơ quan tai chiếm một vị trí quan trọng liên quan tới nghề nghiệp.
-
Chống
bụi.
-
Chống
hơi độc...
-
Chấn
thương âm thanh, chấn thương do áp lực không khí trong những quân binh chủng
đặc biệt như binh chủng xe tăng, hải quân, không quân.
No comments:
Post a Comment