I. Đại cương
1.
Ngôi:
Ngôi là phần thai
nhi trình diện
trước eo trên trong khi có
thai và khi chuyển dạ.
1.1 Phân
loại: có hai loại ngôi: ngôi dọc và ngôi ngang
1.1.1. Ngôi dọc:
là ngôi mà trục của thai nhi ăn khớp với trục của tử cung.Tuỳ theo độ cúi của đầu thai nhi ta
có:
Ø
Ngôi chỏm: đầu cúi hẳn, mốc của ngôi là xương chẩm gần thóp sau, đường kính lọt của ngôi là Hạ chẩm - Thóp trước: 9,5
cm, ngôi chỏm có khả năng đẻ được đường âm đạo.
Ø
Ngôi mặt: đầu ngửa hẳn, mốc của ngôi là mỏm cằm, đường kính lọt của ngôi là Hạ cằm - Thóp trước: 9,5 cm. Ngôi mặt có khả năng đẻ được đường âm đạo nếu là ngôi mặt cằm vệ
và không đẻ được theo đường âm đạo nếu là ngôi mặt cằm cùng.
Ø
Ngôi trán: đầu ở tư thế trung gian, mốc của ngôi là gốc mũi, đường kính nếu lọt là Thượng chẩm - Cằm: 13,5
cm. Ngôi trán
không thể đẻ được theo
đường âm đạo.
Ø
Ngôi thóp trước: mốc của ngôi là thóp trước, nằm chính giữa tiểu khung, đầu cúi hơn so với ngôi trán, cũng chỉ
là một dạng của ngôi trán, nếu ngôi đã cố định vào tiểu khung cũng không thể đẻ được theo
đường âm đạo vì đường kính nếu lọt của ngôi trán là chẩm cằm 13cm.
Ø
Ngôi ngược
hay ngôi mông: đầu thai nhi nằm ở trên. Gồm có: ngôi ngược hoàn toàn và ngôi ngược
không hoàn toàn.
o Ngôi ngược
hoàn toàn: Khi có cả mông và
hai bàn chân thai nhi ở eo
trên.
o Ngôi ngược
không hoàn toàn: có kiểu
mông, kiểu đầu gối,
kiểu chân.
§
Ngôi ngược không hoàn toàn kiểu mông: hai chân thai nhi vắt ngược lên hai vai,
chỉ có mông thai nhi trình
diện trước eo trên.
§
Ngôi ngược không hoàn toàn kiểu đầu gối: thai nhi như quì trong buồng tử cung, chỉ
có hai đầu gối trình diện
trước eo trên.
§
Ngôi ngược không hoàn toàn kiểu chân: thai nhi như đứng trong buồng tử cung, hai bàn chân trình
diện trước eo trên.
Trên thực tế hiếm gặp ngôi ngược kiểu đầu gối và kiểu chân. Trong quá trình chuyển dạ hai ngôi này sẽ thành ngôi ngược
hoàn toàn.
o
Mốc của ngôi ngược là đỉnh xương cùng, đường kính lọt của ngôi là cùng chầy 9 cm. Ngôi ngược có khả năng đẻ được đường âm đạo nếu thai nhỏ vì cái khó trong ngôi ngược
là phần đầu to lại ra sau nên
dễ mắc
đầu hậu.
1.1.2
Ngôi ngang: Trục của
thai nằm ngang với trục của tử cung.
§
Ngôi ngang còn gọi là
ngôi vai vì vai trình
diện trước eo trên,
mốc của
ngôi là mỏm vai.
Ngôi
ngang không đẻ được
theo đường âm đạo.
o
Tóm lại có 5 loại ngôi cụ thể: Ngôi chỏm, ngôi trán, ngôi mặt, ngôi ngược và ngôi ngang.
1.2 Mốc của ngôi: mỗi loại ngôi thai có một điểm mốc, dựa vào điểm mốc đó để phân biệt các loại ngôi thai.
+ Ngôi chỏm: mốc là xương chẩm.
+ Ngôi mặt: mốc là mõm cằm.
+ Ngôi trán: mốc là gốc
mũi.
+ Ngôi ngang: mốc là mõm vai.
+ Ngôi mông: mốc
là đỉnh của xương cùng.
2
Thế: Là tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với bên trái hoặc bên phải khung chậu của người mẹ vì vậy mỗi một ngôi có hai thế: Thế phải hoặc thế
trái.
NGÔI
|
MỐC
|
THẾ
|
KIỂU THẾ--LỌT
|
KIỂU THẾ
SỔ
|
ĐƯỜNG KÍNH LỌT
|
Chỏm
|
Trái
|
Chẩm trái trước Chẩm trái ngang
Chẩm trái sau
|
Chẩm trước
|
Hạ chẩm –thóp trước
9,5 cm
|
Xương Chẩm
|
Phải
|
Chẩm phải trước Chẩm phải ngang Chẩm phải sau
|
Chẩm sau
|
||
Mông
|
Đỉnh
xương cùng
|
Trái
|
Cùng trái trước Cùng trái
sau
|
Cùng ngang trái
|
Cùng –
chày 9 cm
|
Phải
|
Cùng phải trước Cùng phải
sau
|
Cùng ngang phải
|
|||
Mặt
|
Cằm
|
Trái
|
Cằm trái trước Cằm trái ngang
Cằm trái sau
|
Cằm trước
|
Hạ cằm – thóp trước 9,5 cm
|
Phải
|
Cằm phải trước Cằm phải ngang Cằm phải sau
|
||||
Trán
|
Gốc mũi
|
Trái Phải
|
Không có
|
Không có kiểu thế sổ
|
Thượng chẩm –cằm
13,5 cm
|
Ngang
|
Mỏm
vai
|
Trái Phải
|
Không có
|
Không có kiểu thế sổ
|
|
Thóp trước
|
Thóp trước
|
Trái Phải
|
Không có kiểu thế sổ
|
Chẩm cằm 13 cm
|
II.
Chẩn đoán ngôi thế kiểu thế
LÂM SÀNG
3. Sờ nắn:
3.1 Nắn cực dưới:
3.2 Nắn cực trên
3.3 Nắn hai bên
3.4 Nắn mỏm vai
3.5 Thủ thuật sờ nắn Léopold ( cũng tương tự như trên )
4. Nghe tim thai:
5. Thăm âm đạo:
3. Sờ nắn:
3.1 Nắn cực dưới:
3.2 Nắn cực trên
3.3 Nắn hai bên
3.4 Nắn mỏm vai
3.5 Thủ thuật sờ nắn Léopold ( cũng tương tự như trên )
4. Nghe tim thai:
5. Thăm âm đạo:
CẬN LÂM SÀNG
III. Chẩn đoán độ lọt: chủ yếu đề cập đến ngôi chỏm
4. Có 4 độ lọt: Cao lỏng, chúc, chặt, lọt
4.2 Chúc
4.3 Chặt
4.4 Lọt
Ø
Xác
định mốc của ngôi nằm ở bên phải hay bên trái của khung chậu người mẹ mà ta có thế phải hay thế trái, ngoài ra ta còn có thể dựa vào lưng của thai nhi để xác định thế
của thai trên lâm sàng.
Ø
Trên lâm sàng ngôi chỏm: lưng bên nào thế ở bên đó, ngôi mặt lưng bên nào thế bên
đối diện.
3
Kiểu thế: là tương quan giữa điểm mốc của ngôi thai với các điểm mốc của khung chậu người mẹ.
- Một số
vị trí giải phẫu các mốc của
eo trên
+ Mỏm chậu lược: ở phía trước gần khớp mu
+ Khớp cùng chậu: ở phía sau là khớp giữa xương cùng và xương chậu, mỗi bên có một khớp cùng chậu.
+ Điểm giữa gờ vô danh:
chính giữa gờ vô danh.
- Phân loại:
+ Kiểu thế trước: mốc của ngôi thai tương ứng với mỏm chậu
lược.
+ Kiểu thế ngang:
mốc của ngôi thai nằm tương ứng với điểm giữa gờ vô danh.
+ Kiểu thế sau: mốc của ngôi thai nằm tương ứng với khớp cùng chậu. Nhưng khung chậu
gồm 2 xương chậu hợp lại nên tất cả có 6 kiểu thế.
- Cách gọi tên:
Ví dụ: Ngôi chỏm
Thế trái:
+ Kiểu thế trước: CCTT
+ Kiểu thế sau: CCTS
+
Kiểu thế ngang: CCTN Thế phải
+ Kiểu thế trước: CCFT
+ Kiểu thế sau:
CCFS
+ Kiểu thế ngang:
CCFN
4. Kiểu thế sổ: Khi ngôi đã xuống eo dưới thì cũng dựa vào vị trí điểm mốc của thai nhi mà
có các kiểu sổ (tuỳ theo ngôi).
- Ngôi chỏm có 2 kiểu sổ: chẩm vệ và chẩm cằm
- Ngôi ngược có 2 kiểu sổ: cùng ngang trái và cùng
ngang phải
- Ngôi mặt: có 1
kiểu sổ là cằm - vệ và 1 kiểu không thể sổ được là cằm – cùng
1. Hỏi bệnh: thai nhi đạp bên trái, phải của sản phụ
2.
Nhìn: xem bụng hình trứng trong
ngôi dọc hay bè
ngang đối với ngôi vai
Ø Tư thế sản phụ : nằm ngửa,
2 chân chống để cơ bụng trùng
lại dễ thăm khám
Ø
Người khám ngồi bên phải hay bên trái thai phụ, dùng 2 tay khám, nắm áp sát vào thành bụng, nắn cực
dưới, cực trên rồi nắn 2 bên
Ø Nếu là
1 khối tròn, cứng,dễ di động thì đó là cực đầu.
Ø Nếu là khối mềm, không tròn, di động ít hơn thì đó là cực mông
Ø Nếu tiểu khung rỗng ( không thấy một khối nào) thì đó có thể
là ngôi vai
Ø
Mục
đích của nắn cực trên là
tìm
cực còn lại của thai nhi nhằm chẩn
đoán ngôi đầu,ngôi mông hay ngôi vai
Ø
Nếu cực dưới là
cực đầu thì cực trên
là mông
và ngược lại
Ø
Nếu thấy một diện phẳng, đều rắn thì đó là lưng thai nhi. Lưng tương xứng với thế của ngôi thai. Lưng bên nào thế bên đó trừ trường hợp ngôi mặt lưng đối diện với thế.
Ø
Nếu thấy nhiều khối lổn nhổn, to nhỏ khác nhau thì đó là chân tay thai nhi.
Ø
Nếu nắn
được nhiều diện lưng kèm theo sờ được ít các cực
chi
thai nhi có nghĩa
là thai nhi nằm sấp,
kiểu thế trước.
Ø
Nếu sờ được ít diện lưng và nhiều cực chi lổn nhổn có nghĩa là thai nhi nằm ngửa. kiểu thế sau.
Ø
Mỏm vai tương xứng với bên lưng thai nhi, là một khối phía trên đầu thai nhi
Ø
Nắn, xác định vị trí mỏm vai để tìm điểm nghe
tim thai.
Để biết vị trí các phần của thai nhi, việc sờ nắn có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán ngôi thế. Thai
phụ nằm ngửa, hai chân chống để đùi tạo với mặt giường một góc 450, làm các cơ bụng chùng dễ nắn hơn. Áp dụng bốn thủ thuật của Léopold,
người khám đứng bên phải sản phụ, nắn lần lượt từ
thủ thuật 1, 2, 3; đến thủ thuật 4 thì xoay nhìn
về phía
chân của sản phụ.
- Thủ thuật thứ nhất: nắn cực trên (đáy tử cung)
để biết ở đáy tử cung
là đầu hay là mông của
thai nhi. Nếu sờ được một khối có chỗ rắn chỗ
mềm, không tròn,
ít di động đó là mông. Nếu
sờ được một khối rắn chắc, tròn đều, dễ di động có dạng đá cục đó là đầu của thai nhi.
- Thủ thuật thứ hai: nắn
nhẹ nhàng nhưng sâu hai bên
bụng, để xác định bên nào là lưng, bên nào là chi của thai nhi. Nếu sờ được một diện phẳng, rắn, đều đó là lưng; đối diện với lưng nắn thấy lổn nhổn
những khối to
nhỏ khác nhau di động dễ, có
khi nắn mạnh thấy phần thai nhi mất đi rồi hiện lại đó là tay chân của thai nhi.
- Thủ thuật thứ ba: Nắn cực dưới để biết có đầu hay mông, dựa vào các tính chất như nắn cực
trên của tử cung. Nếu không sờ thấy gì ta nói hạ vị rỗng và xác
định đó là trường hợp ngôi ngang.
- Thủ thuật thứ bốn: Người khám xoay
mặt
về phía chân của
sản phụ:
+ Dùng một bàn tay ấn sâu xuống bờ trên
xương vệ, khi ngôi còn cao thì bàn tay người khám ấn
xuống dễ.
+ Dùng hai bàn tay
ấn dọc hai bên cực dưới của
tử cung. Khi đầu chưa lọt hai bàn tay có hướng hội tụ vào nhau, khi đầu đã lọt hai bàn tay hướng ra ngoài không thể chạm vào nhau được.
Thủ thuật 1 Thủ thuật 2 Thủ
thuật 3 Thủ thuật 4
Khám 4 thủ thuật Leopold
Ø
Dùng ống nghe sản khoa, đặt đầu loa vào vị trí ổ tim thai đầu kia áp tay vào nghe
Ø
Nghe tim thai trong cả 1 phút, cần
phân biệt với tiếng đập của động mạch chủ bụng và
tiền thổi của
động mạch tử cung bằng cách
vừa nghe vừa bắt mạch
Ø Vị trí nghe
tim
thai là mỏm vai,
cung bên với thế của thai nhi
Ø
Đối với ngôi chỏm: nghe
tim
thai ở dưới rốn, người nghe cần quay đầu xuống phía
dưới.
Ø
Đối với ngôi mông: nghe tim thai ở trên rốn, người nghe cần quay đầu lên phía trên.
Ø
Vị trí nghe tim thai gần đường giữa thì là kiể thế trước, vị trí nghe tim thai xa đường giữa thì là kiểu thế sau.
Ø Thăm âm đạo khi chuyển dạ
Ø
Sản phụ nằm trên bàn đẻ, người khám đi găng vô khuẩn được bôi trơn bằng parafin
Ø Dùng 2
ngón trỏ và giữa
để khám
Ø Xác định
độ mở CTC bằng cách viền xung quanh CTC để xác định.
Ø Xác định đầu ối còn hay
không, dẹt hay không dẹt
Ø
Xác định ngôi thai: ngôi đầu sẽ thấy khối cứng, ngôi mông thấy khối mềm, ngôi vai sờ thấy mỏm vai.
Ø Xác định mốc của
ngôi vai:
Ø
Vị trí mốc của ngôi thai tương xứng với khung chậu người mẹ, ở bên phải hay trái, trước
hay
sau thường dựa theo vị trí giờ.
o Kiểu thế
trước : mốc của
ngôi
ở vị trí 10-11-1-2 giờ o Kiểu thế
ngang: mốc của
ngôi
ở vị trí 3
hoặc 9 giờ o Kiểu thế sau: mốc của ngôi ở vị trí 7-8-5-6 giờ
Một biện pháp an toàn, chính xác, được sử dụng trong
những trường hợp khó như sản phụ quá mập, thành bụng quá dày quá rắn chắc hoặc rau bám trước. Một đôi khi cũng phải sử dụng đến X quang để xác định vị trí, tư thế hoặc hình
thể của
thai nhi; song từ
khi có siêu âm vai trò của X quang ngày càng ít.
1. Dùng 2
bàn tay úp vào thành bụng hai bên đầu. Nắn
xác định bướu đỉnh và bướu trán, di động đầu sang hai bên và lên xuống, xác định xem có còn rãnh giữa đầu và xương vệ không
2. Xác định vị trí ổ tim thai so
với điểm giãu bờ trên khớp vệ bằng cách nắn mỏm vai và nghe
tim thai
3. Thăm âm đạo: xem đầu di động sang hai bên và lên xuống, sờ bướu đỉnh tìm dấu hiệu Farabeuf trong trường hợp ngôi đã lọt
4.1 Cao lỏng:
Ø
Nắn đầu di động sang hai bên dễ dàng, nắn thấy bướu chẩm và bướu trán ngang nhau, còn rãnh giữa đầu và xương vệ.
Ø
Vị trí ổ tim thai trên
khớp vệ 10 cm
Ø
Thăm âm đạo đẩy
đầu lên dễ
dàng
Ø
Đầu không di động sang hai bên được nhueng có thể di động lên xuống được, bướu chẩm thấp hơm bướu trán,
không còn rãnh giữa đầu và xương vệ
Ø
Thăm âm đạo không di động sang hai bên được nhưng có thể đẩy lên xuống được
Ø
Đầu không di động sang hai bên và lên xuống dưới được, chỉ nắn được một bướu trán
trên khớp vệ
Ø
Vị trí ổ tim thai trên
khớp vệ 7 cm
Ø
Thăm âm đạo thấy đầu đã xuống sâu trong âm đạo, không đẩy lên xuống được
§ Không sờ thấy hai bướu chẩm và trán được
§ Vị trí ổ tim thai cách
bờ trên khớp vệ <3 cm
§
Thăm âm đạo sờ thấy hai bướu đỉnh trong âm đạo. Tìm dấu hiệu Farabeuf bằng cách đưa ngón trỏ và ngón giữa trong âm đạo tì vào bờ dưới khớp vệ hai đầu ngón tay lân lượt vào mặt trước xương cùng, nếu ngôi đã lọt thì không sờ thấy đốt cùng hai.
§ Cần chú
ý lọt giả
trong trường hợp có bướu huyết thanh
to.
No comments:
Post a Comment